Y khoa hiện đại học gì từ những Di sản của HẢI THƯỢNG LÃN ÔNG

16:19 14/09/2025

Y khoa hiện đại học gì từ những Di sản của

HẢI THƯỢNG LÃN ÔNG

Trần Thị Hoa, BS Y khoa hiện đại, TS Khoa học Y Dược

Ảnh nguồn: Báo Người Lao Động

 

 

 

 

“Nhà Đạo đức Y khoa, Thầy thuốc và Thầy giáo mẫu mực mọi thời đại” 

 

 

 

 

TÓM TẮT

Dựa vào bộ Hải Thượng Lãn Ông - Y Tông Tam Lĩnh để tìm hiểu và học hỏi Đại danh y - Danh nhân Văn hoa Thế giới Hải Thượng Lãn Ông, đã để lại cho hậu thế những di sản vô giá, mà trong đó, những giá trị dưới đây thiết nghĩ là bác sĩ lâm sàng tây y nên tâm đắc, kế thừa: 

  1. Y đức, muốn làm nghề y trước hết phải xây cho giàu lòng nhân, coi tính mạng con người là trên hết, phải lo cái lo của người, lấy việc giúp người làm phận sự của mình, phải có phẩm hạnh và lối sống lành mạnh, không cầu lợi kể công với người ốm đau bệnh tật. Tình thương luôn gắn liền với trách nhiệm.
  2. Tinh thần khổ học, mà theo Lãn Ông là tự học, tranh thủ mọi lúc mọi nơi tìm tòi sách vở mà học nhưng phải biết chắt lọc lấy những tinh hoa của các sách, nghiên cứu ngày đêm rút ra những ý cốt lõi, biện luận kỹ càng và suy tưởng rộng ra, càng ngày càng tinh vi như chiếc vòng không cùng tận.
  3. Khám chữa bệnh của Lãn Ông là một biểu tượng mẫu mực của Thầy thuốc đa khoa: chữa tất các loại bệnh kể cả truyền nhiễm. Sản phụ khoa và nhi khoa là hai lĩnh vực riêng nhưng cũng thuộc nhiệm vụ của Thầy thuốc đa khoa, cần nghiên cứu tâm sinh lý của từng đối tượng, nữ khác nam, chữa cho trẻ con là khó nhất vì thể chất non yếu, chưa biết nói. Khám bệnh kết hợp hỏi bệnh sử, thủ thuật quan sát và nghe đem lại nhiều thông tin để chẩn đoán và điều trị; hiểu mối quan hệ giữa người bệnh với thế giới bên ngoài ảnh hường tới sức khỏe như: hoàn cảnh gia đình, tuổi tác, thời tiết, dinh dưỡng, vệ sinh môi trường…, chữa bệnh phải nhằm vào gốc. Trong lúc khám hoặc chữa bệnh mà chưa chẩn đoán ra hoặc thấy bệnh chưa đáp ứng với phác đồ là phải lật sách vở mà đọc, mà suy tưởng sao cho ra. Nghề y không dễ, phải đọc rộng, tham khảo nhiều cả sách y lẫn dược.

Trong bộ Hải Thượng Lãn Ông cho thấy rất nhiều bệnh đã chữa khỏi bằng các loại cây thuốc phối hợp thành bài hoặc phương, mà nhiều trong số những chứng ấy trong y văn tây y chưa thấy nêu. Bởi thế ở thời đại của chúng ta, mặc dù công nghệ tây y phát triển như vũ bão nhưng nhiều nước trên thế giới vẫn duy trì YHCT trong hệ thống chăm sóc sức khoẻ. WHO thực hiện cả hai lĩnh vực y khoa hiện đại và truyền thống - chi phí thấp và không sinh tác dụng phụ. Tuỳ theo trường hợp bệnh tật và vùng địa lý, có bệnh chỉ cần chữa bằng đông y, nhiều bệnh mãn thì kết hợp đông tây y. 

TỪ KHOÁ: Y đức, thầy thuốc đa khoa, y học cổ truyền, đông y, đông tây y kết hợp, cây thuốc

 

NHÀ Y NÓI VỀ Y ĐỨC VÀ TRÁCH NHIỆM NGHỀ Y ĐẦY ĐỦ VÀ SÂU SẮC NHẤT

Xét về y đức, nền y khoa hiện đại trên thế giới có Lời thể Hipocrates[2]. Đem Lời thể này mà đối chiếu với Y Huấn Cách Ngôn[b] của Hải Thượng Lãn Ông thì thấy những điểm cốt yếu về nhiệm vụ và tình thương đối với ngừời bệnh cũng như sự tôn kính các bậc thầy và sẻ chia với đồng nghiệp, hầu như không khác nhau. Song, nếu chúng ta đọc Y Huấn Cách Ngôn, Y Âm Án, các Bài Tựa, Đề Tựa và Tiểu Dẫn trong bộ sách Hải Thượng Lãn Ông Tông Tâm Lĩnh, sẽ hiểu rộng hơn các mặt y đức và nhiệm vụ của người làm nghề y.

Hải Thượng Lãn Ông nhiều lần nhấn mạnh: “Nghề thuốc là nghề thanh cao, là nghề có lòng nhân…”. Từ đó mà các mặt trong đời sống, hành nghề thầy thuốc - thầy giáo và viết sách, Ông đều đạt tới một tầm cao đặc biệt. Theo Ông “nhân” là một đức tính cơ bản của người làm nghề y. Đức tính ấy nên là điều kiện tiên quyết để vào nghề y, nếu không có lòng nhân, không biết quan tâm tới người khác thì nên đi kiếm sống bằng nghề khác ít đòi hỏi nhân đạo hơn. 

Câu đầu tiên trong Ước Lệ Chung[a]: “Đạo y là học thuật bảo vệ sự sống rất cao cả, là đầu mối vun trông cây đức”. Ở Y Huấn Cách Ngôn[b] và Y Âm Án[c], Ông nhắc lại:  “Đạo làm thuốc/Nghề y là một nhân thuật, có nhiệm vụ gìn giữ tính mạng người ta, phải lo cái lo của người, vui cái vui của người, chỉ lấy việc giúp người làm phận sự của mình mà không cầu lợi kể công”“Thầy thuốc là người bảo vệ sinh mạng của con người, tử sinh hoạ phúc đều ở tay mình quyết định”. Điều này chứng tỏ Ông coi trọng tính mạng con người, đặt bệnh nhân lên trên hết. Ông không ngại khó nhọc, dù đêm hôm, dù đường xa, dù đang ốm yếu, băng qua núi đồi đều nhận lời giúp dân trực tiếp một cách chu đáo và thận trọng tối đa trước khi đặt bút kê đơn, kể cả những trường hợp bệnh có tính chất lây truyền hoặc ghẻ lở. 

Ông bộc bạch tất thảy những kinh nghiệm quý báu và cả những thất bại mà hiếm người không dám nói, cốt để cho những thầy thuốc khác tránh sai lầm. Làm thầy thuốc mà không có lòng thương chung giúp đỡ người khác, không nghiền ngẫm sâu sắc tìm cách cứu sống người mà cứ chăm chăm kể lợi tính công, lấy của hại người thì còn khác gì bọn giặc cướp.

Đối với thầy thuốc “cái bệnh” là đối tượng số một. Bệnh nguy cần chữa trước, bệnh chưa nguy có thể để chậm lại chữa sau, tuỳ trường hợp mà giải quyết kịp thời và chu đáo. Có những trường hợp bệnh nhân đã khỏi bệnh nhưng gia cảnh nghèo không có gì để sinh sống, Ông chu cấp cho tiền gạo. Ông nói: “Phần mình phải hết sức suy nghĩ, đem hết khả năng để làm kế tìm cái sống trong cái chết cho người ta, thấy người bệnh đáng dùng thuốc thì mới cho, xác định bệnh cần thuốc gì thì kê thuốc đó, không vì lợi ích cho bên bán thuốc mà vì tính mạng của người bệnh là trên hết”. 

Ông tự bạch “Tôi thường thấm thía rằng thấy thuốc có nhiệm vụ bảo vệ mạng sống người ta, sự sống chết, điều hoạ phúc đều ở tay mình, xoay chuyển, lẽ nào người có trí tuệ không đầy đủ, hành động không chu đáo, tâm hồn không khoáng đạt, trí quả cảm không thận trọng mà dám theo dõi bắt chước nghề y”, “Người thầy thuốc chân chính cần có 8 chữ Nhân, Minh, Đức, Trí, Lượng, Thành, Khiêm, Cần (biết quan tâm đến người khác, sáng suốt, đức độ, thông minh, rộng lượng, thành thật, chăm chỉ, khiêm tốn, chịu khó). Ông cũng khuyên thầy thuốc cần tránh: Lười, keo, tham, dốt, ác, hẹp hòi, thất đức”. Ông phàn nàn rằng “Than ôi đem nhân thuật làm chút dối lừa, đem lòng nhân đổi ra lòng buôn bán. Như thế thì người sống trách móc, người chết oán hờn không thể tha thứ được”.

 

HẢI THƯỢNG LÃN ÔNG LÀ MỘT BIỂU TƯỢNG ĐỘC ĐÁO VỀ KHỔ HỌC

Tinh thần tự học suốt đời, học có chọn lọc và có phương pháp, tính sáng tạo trong người Ông là vô tận!

Thời nào cũng vậy, những người đã thành sự nghiệp đều nhờ vào tự học là chính. Với nhóm vĩ nhân, chẳng hạn như Hải Thượng Lãn Ông, thì sự tự học ắt hẳn càng trội hơn người bình thường. Ở quyển Y Hải Cầu Nguyên[h], Ông viết: “Tìm hiểu sách vở của khắp các nhà, nghiên cứu ngày đêm, mỗi khi được một câu cách ngôn của hiền triết xưa thì ghi ngay tại chỗ hiện luận kỹ càng, thức nhấp luôn luôn suy nghĩ. Phàm những chân lý ngoài lời nói, phần nhiều nảy ra trong lúc suy tưởng, nhân đó suy rộng ra, càng ngày càng tinh vi như chiếc vòng không cùng tận…”

Ông lĩnh hội được những điều hay mới đưa vào sách, ông đã chắt lọc lấy những tinh hoa của các sách, những vốn quý của dân gian về y học để đưa vào một bộ sách tóm gọn để tiện xem, tiện đọc, chẳng hạn với số lượng lớn bài thuốc cũ, Ông chỉ chọn những bài mà ông cho là có nhiều hiệu quả, ông đã có nhiều kinh nghiệm vận dụng, viết thành một quyển gọi là Tâm đắc thuần phương.

Tính sáng tạo trong học tập của Ông thể hiện qua việc Ông nghiên cứu sách xưa, nhưng nhiều chỗ không rập khuôn mà cắt xén, chỉnh sửa và vổ sung sao cho đúng đắn, sát hợp hơn. Ông có đóng góp những chỗ mới về lý thuyết và phương thang, có lập luận riêng, phát kiến độc đáo, sáng chế một số bài thuốc mới.

Phương pháp học của Ông không bao giờ lỗi thời: phải đọc rộng, tham khảo nhiều, khi đã có nhiều tư liệu rồi thì phải biết sắp xếp tóm gọn cho có hệ thống thì mới tránh được bệnh tản mát, hoặc lộn xộn mâu thuẫn nhau. Trong Tiểu dẫn ở Tâm Đắc Luận, Ngoại cảm thống trị[e]: “học được rộng, biết được nhiều điều xa lạ mà quy hẹp lại cho thật đơn giản và sát đúng mới là đặc sắc trong y thuật”, “biết được mấu chốt, chỉ nói một lời đã đủ, không biết mấu chốt lan man vô cùng!”,. Đoạn này của Ông thể hiện tinh thần tự nhủ mình học hỏi, nghiên cứu mọi lúc mọi nơi: khi có chút thời gian nhàn rỗi là nghiên cứu các thuốc xưa nay, luôn luôn phát huy biến hoá, thâm nhập được vào tâm, thấy rõ được ở mắt thì tự nhiên ứng vào việc làm mà không sai lầm.

Con người ta đạt đến đích lớn lao là dựa vào tự học, mà đã tự học thì tất nhiên phải xác định con đường đi tức là chí hướng, phải khổ học như Ông: “đóng cửa đọc sách gần sáu bảy năm tròn”, Tiều dẫn - Vận khí bí điển, đồng thời phải có suy nghĩ độc lập và độc đáo, có chính kiến và bất chấp những thông tục không cần thiết, đó là con người của Đại danh y Hải Thượng Lãn Ông! Nhiều lần Ông do dự và cuối cùng thì đã quyết định công bố những tác phẩm mà Ông dày công biên soạn với những lý lẽ mạnh dạn: “tôi thà mắc tội với tiền bối chứ không phụ các sở học của mình”“mong làm sáng tỏ thêm những chỗ vẫn chưa sáng nghĩa, những phần lý luận trước đây chưa đầy đủ”, Bài tựa của Đạo lưu dư vận. Nhờ vậy mà nhiều thế hệ ngành y chúng ta kể từ thời của Ông tới hiện tại, mới đọc và học được bộ sách của Ông, có một không hai trong lịch sử ngành y nước nhà: hội tụ đủ những lĩnh vực khoa học cần thiết cho cả thầy thuốc đông y lẫn bác sĩ tây y cũng học hỏi được. Không học chuyên sâu đông y mà là những điều cơ bản từ bộ sách ấy là y đức và khung tư duy cơ bản về bệnh học, y thuật chẩn đoán và chọn phương, nguyên nhân (dịch tễ học) và dược học.

Tính cẩn trọng gắn liền trách nhiệm với xã hội của Ông thấy rõ trong mọi việc (kê đơn, chọn phương, viết sách) thể hiện trong Bài Tựa Tập Tâm Lĩnh của Lãn Ông Tự Đề[đ]: Ngạn ngữ có câu: “Cho thuốc không bằng cho phương”. Bởi vì bài thuốc chỉ cứu sống được một người, phương thuốc diễn giải được nhiều, để lại điều nhân được mãi mãi. Song, nghĩ cho kỹ, nếu dùng một vị, nếu chưa thoả đáng thì hàng trăm gia đình chịu tai ương; huống hồ khi viết thành sách rồi thì mỗi lời nói như đóng đinh không suy suyển. Nếu trong đó có một chỗ sai lầm thì tai hại còn hơn phương thuốc rất nhiều”. Điều này cho thấy sự nhận thức về trách nhiệm đối với xã hội trong con người Ông rất sâu nặng. Ông kế thừa học thuật của các bậc danh y tiền bối, tiếp thu những điều tinh hoa và loại bỏ, phê phán những điều không đúng, không tốt. Ông không ngần ngại để phơi Kỷ yếu HTKH QT Hải Thượng Lãn Ông – Hưng Yên 20/12/2024 4 bày những điều mình chưa biết, chưa làm được hoặc làm sai. Chỉ một điểm này thôi đủ nói lên tầm cao của lòng trung thực, tầm cao của ý thức đối với học thuật, tầm cao của lòng thương yêu người bệnh, tầm cao của phẩm giá con người chân chính của Đại danh y Lãn Ông!

 

HẢI THƯỢNG LÃN ÔNG LÀ NHÀ LÂM SÀNG ĐA KHOA MẪU MỰC

Thầy thuốc như Ông đã làm là một Bác sĩ đa khoa tầm cao, thể hiện ở các bệnh án Ông đã khám chữa cho mọi lứa tuổi thuộc nội, ngoại, sản, nhi, bệnh truyền nhiễm nặng, chấn thương, cấp cứu,… Đặc biệt, Ông lưu tâm tới sức khoẻ phụ nữ, đã viết 2 quyển Phụ Đạo Xán Nhiên I và II[l] , trong đó Ông ghi ra rất nhiều chứng bệnh và biến chứng ở phụ nữ thời kỳ thai sản mà sách Sản Phụ khoa Tây y chưa thấy nêu. Ông nghiên cứu sinh lý của nữ giới để hiểu những đặc điểm trong cơ thể nữ, đi đến kết luận khác nam, từ đó làm cơ sở để khám chữa bệnh cho phụ nữ, chăm sóc thai nghén và sinh sản, chữa rối loạn kinh nguyệt, chữa vô sinh và nhiều chứng bệnh khác. Bên cạnh đó, Ông cũng dành một phần đời của mình cho trẻ em cả chữa bệnh lẫn viết sách, là quyển Ấu Ấu Tu Tri[o], gồm những điểm cốt yếu: Trẻ con chất non yếu, mỗi trẻ một khác tuỳ vào gia cảnh và sức khoẻ cũng như tuổi tác của cha mẹ chúng, nguyên nhân và cơ chế bệnh cũng khác người lớn cho nên phép chữa bệnh cho trẻ cũng khó hơn chữa cho người lớn và Ông đã ghi ra nhiều chứng bệnh của trẻ em mà các sách Nhi Tây y không thấy có. Bốn Điều Cốt Yếu Của Thầy Thuốc trong quyển này, ở Điều Hỏi bệnh tình cho thấy Ông tập trung phần lớn câu hỏi về trẻ em. Điều này càng chứng tỏ Ông yêu quý trẻ em đến nhường nào!

Thiết nghĩ là BS Sản phụ khoa và Nhi khoa hiện đại nếu gặp những trường hợp mà mình không tìm được trong y văn Tây y thì nên chuyển họ tới thầy thuốc đông y, những chuyên gia mà đã nhuần nhuyễn bộ sách của Hải Thượng Lãn Ông Y Tông Tâm Lĩnh.

Thuật khám bệnh Ông đề ra Bốn Điều Cốt Yếu Của Thầy Thuốc, gồm:

  1. Quan sát: khí sắc và bộ mặt.
  2. Nghe âm thanh của tiếng nói, âm thanh la hét.
  3. Hỏi bệnh tình.
  4. Bắt mạch.

Ba trong bốn (từ Điều số 1 – 3) trên đây của Ông là những thủ thuật mà Hypocrates, Ông tổ Y khoa Thế giới đã dùng và cũng đã dạy cho những học trò của mình. Đến thời kỳ các trường YKHĐ phát triển, nhiều nhà khoa học LS đã viết ra sách với tên gọi Khám thực thể. Bác sĩ LS đều áp dụng trong khám bệnh[3]. Tuy nhiên, nền Tây y của nước ta thì mục này vốn cũng đã được áp dụng, nhưng trong vài thập niên trở lại đây dường như mai một dần, trong khi đó vai trò của 3 y thuật này vô cùng đắc dụng cho chẩn đoán bệnh cũng như theo dõi quá trình điều trị và tiên lượng bệnh. Những bệnh án mà Ông đưa vào bộ Hải Thượng Lãn Ông Y Tông Tâm Lĩnh, đều ghi chép tỉ mỉ những dấu hiệu và triệu chứng đã khám, đã hỏi bệnh nhân, theo dõi bệnh sát sao và ghi chép diễn tiến trong quá trình chữa trị. Kê đơn thuốc, Ông ghi rõ liều lượng từng dược phẩm, kèm lời dặn cách chế thuốc và dùng thuốc, kiêng cử gì, đồng thời Ông cũng chỉ dẫn các biện pháp phòng bệnh.

Phát hiện bệnh là Ông dựa trên nguyên tắc khám phá và phân tích cơ thể từng người bệnh có tính khoa học, lồng ghép phòng bệnh và chữa bệnh, nâng niu và bảo tồn cơ thể của bệnh nhân. Mỗi bệnh nhân, Ông dành nhiều thời gian để chăm sóc theo dõi diến tiến bệnh từ đó đưa ra lời khuyên và cách chữa phù hợp. 

Đọc qua Phép Tắc Chữa Bệnh[g], ngay từ câu đầu tiên: “Chữa bệnh phải nhằm vào gốc”. Ông nhấn mạnh: “Biết được điều cốt yếu, chỉ một lời là rõ hết, không biết được điều cốt yếu thì lan man vô cùng”“Biết được chứng ngọn, chỉ tìm bệnh gốc mà chữa thì nghìn người không sai một”. Cách chữa bệnh của Ông không chỉ nhằm vào những dấu hiệu và hội chứng mà còn cắt nguyên nhân gây bệnh, suy luận mối quan hệ giữa người bệnh với thế giới bên ngoài, tìm hiểu những yếu tố ảnh hường tới sức khỏe như thời tiết, dinh dưỡng, vệ sinh môi trường…. Ông tự bạch: “Tôi chữa bệnh đã hai mươi năm nay, kinh nghiệm đã nhiều, biết được những điều cốt yếu, muốn giúp người sau có đường tắt để đi, có nhà để vào, vận dụng hết tinh thần, xem hết mọi sách, bỏ cái sai, lấy cái đúng, hợp với kiến của mình mà chọn lọc lấy cái tinh hoa, nắm điều cốt yếu để làm then chốt của nghề y, làm kim chỉ nam trong lâm sàng, đều là những lời truyền thụ tinh vi, là đề cương chữa bách bệnh, là cách tìm hiểu những vấn đề then chốt”.

Mỗi bệnh nhân được Ông chữa trị, chế độ ăn uống luôn được Ông lưu ý, khi kê đơn thuốc cho bệnh nhân Ông đều nhấn mạnh chỉ cho tới 9 phần, còn lại là để ăn uống bồi dưỡng.

Ông cũng rất quan tâm tới phòng bệnh, đọc qua Di Dưỡng[h] chúng ta có thể nhận ra những biện pháp phòng bệnh là ăn uống điều độ; nghỉ ngơi hợp lý, vui chơi chừng mực, tinh thần an nhiên, giữ cho thể chất cân xứng, lối sống vệ sinh.

Y đạo và y lý hoà quyện trong lúc Ông hành nghề khám chữa bệnh. Miễn gặp bệnh khó chưa chẩn ra, Ông quay lại đọc sách rồi suy tưởng để chẩn đoán ra bệnh, chọn phương (hiểu ngầm là phác đồ) và gia giảm cho hợp với bệnh tình. Chẩn bệnh xong rồi mà phương chưa ổn, ông lại tìm tòi sách đọc và suy tưởng tiếp đến khi ra được phương đúng đắn mới dừng. Ông đã có công sưu tập những bài thuốc hiệu nghiệm viết thành quyển Dược Phẩm Tâm Đắc và cũng nghiên cứu các đặc tính của từng vị thuốc gồm cả tác dụng và độc tính. 

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Hải Thượng Lãn Ông Y Tông Tâm Lĩnh, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội; 2016:
    a. Ước lệ chung, Quyển 1, tr. 29-30
    b. Y huấn cách ngôn, Quyển 1, tr. 29-30
    c. Y âm án, Quyển 1, tr. 1027-1061
    d. Y nghiệp thuần chương, Quyển 1, tr. 31
    đ. Bài tựa tập tâm lĩnh của Lãn Ông tự đề, Quyển 1, tr.23-26
    e. Ngọại cảm thống trị - Tâm đắc luận, Quyển 1, tr.761-762
    g. Phép tắc chữa bệnh, Quyển 1, tr. 127-133
    h. Di dưỡng, Quyển 1, tr.145-151
    k. Y hải cầu nguyên, Quyển 1, tr. 310
    l. Phụ đạo xán nhiên, Quyển 1, tr. 838-927
    m. Tiểu dẫn, Dược phẩm vàng yếu, Quyển 1, tr. 1084
    n. Hành gián trân nhu, Quyển 2, tr. 639-827
    o. Bốn điều cốt yếu của thầy thuốc - Ấu Ấu Tu Tri, Quyển 2, tr. 854-1024
  2. Edelstein, Ludwig (1943). The Hippocratic Oath: Text, Translation and Interpretation. Johns Hopkins Press. p. 56
  3. Lynn S. Bickley (2013): Bates’Guide to Physical Examination and Taking History, p. 3-24

 

TÔI HỌC ĐƯỢC NHỮNG GÌ TỪ ĐẠI DANH Y HẢI THƯỢNG LÃN ÔNG

Những việc tôi đã làm và vẫn luôn trong tâm trí thể hiện tôi đã ảnh hưởng và học hỏi Đại danh y Hải Thượng Lãn Ông tới mức nào:

  • Trên giá sách, tôi đặt bộ HTLO-YTT ở vị trí trang trọng nhất;
  • Khi chọn lựa sách tham khảo, thì bộ HTLO-YTTL là ở nhóm tài liệu hàng đầu. Đọc một số chủ đề của bộ ấy, tôi hiểu ra sự nghiệp y của HTLO nằm ở công trình bộ sách đồ sộ nhất trong lịch sử y khoa nước nhà. Từ đó tôi nghiệm thấy sự suy nghĩ của mình và đã biến thành hành động là không sai: “Khám chữa bệnh suốt cuộc đời cũng chỉ giúp được một số ít người, viết ra sách mà nội dung đúng đắn và không lỗi thời thì giúp được rất nhiều người, không chỉ đương thời mà cả mai sau”. Thế nên tôi đã dành suốt 6 năm viết ra bộ Chăm sóc Sản Nhi thiết yếu 3 quyển: 1) Chăm sóc em bé trước sinh, 2) Giúp trẻ em phát triển tối ưu và 3) Phát hiện trẻ bệnh và chăm sóc phù hợp. Dưới tên sách của mỗi quyển tôi đều ghi Hiện đại kết hợp truyền thống, tức là tây y kết hợp đông y, mà cho tới nay chỉ có mỗi bộ sách của tôi là có sự kết hợp này. Sách xuẩt bản năm 2020, lần đầu 1.000 bộ/3.000 quyển và rồi tái bản 2.000 bộ/6.000 quyển, đã được độc giả đón đọc gần hết. Ở Lời cảm ơn tôi đặt tên Ông ở vị trí đầu tiên, nội dung của 3 quyển này tôi đã trích dẫn nguyên văn một số đoạn, phương chữa bệnh từ bộ sách của Ông. Có một số bệnh tôi còn đưa ra lời khuyên nên tìm thầy thuốc đông y đã học tốt về HTLO mà khám chữa . Tôi cũng đã viết một bài Ưu việt và Hạn chế của Y khoa hiện đại và Y khoa truyền thống, được Nhà XB Y học duyệt cho lồng vào trong bộ sách này.

Thư viện ảnh Xem toàn bộ

Thư viện video Xem toàn bộ

Bài viết

Y khoa hiện đại học gì từ những Di sản của HẢI THƯỢNG LÃN ÔNG
Vàng Da Sơ Sinh

Tin tức và sự kiện

TỌA ĐÀM PHƯƠNG PHÁP TỰ HỌC VÀ ĐỌC SÁCH HIỆU QUẢ: “KHUYẾN KHÍCH TỰ HỌC CÓ THƯỞNG SÁCH”
TSKH y dược Trần Thị Hoa, một nữ trí thức Huế tại Hà Nội